Thứ Hai, 15 tháng 5, 2017

Linh Mục Cao Văn Luận và Lý Tưởng "Lương Sư Hưng Quốc" trong Đạo Kẻ Sĩ (tiếp theo và hết) - Nguyễn Đức Cung

LINH MỤC CAO VĂN LUẬN (1908-1986)
VÀ LÝ TƯỞNG “LƯƠNG SƯ HƯNG QUỐC”
TRONG ĐẠO KẺ SĨ (tiếp theo và hết)
                                                   
                                NGUYỄN ĐỨC CUNG


        5.- Viện Đại Học Huế, niềm ước mơ trăm năm và những nỗi thăng trầm của một con người sống chết vì văn hóa.
        Trong đời vua Tự Đức (1829-1883), có lẽ một trong những ước mơ ông muốn thực hiện ở chốn kinh sư đó là xây dựng một trường đại học kiểu Âu châu, vào năm  1867 ở Huế, nhưng ước mơ đó đã không thể thực hiện được.
        Tháng 3-1867, vua Tự Đức đã cử một phái đoàn sang Pháp gồm Giám Mục Gauthier (Ngô Gia Hậu), Linh Mục Nguyễn Điều, Linh Mục Nguyễn Hoằng và Joannes Vị, với hai vị quan của Triều đình là Nguyễn Tăng Doãn và Trần Hiếu Đạo đáp tàu L’orne đi Pháp. Trong số các công việc phải xúc tiến ở Pháp, phái đoàn này còn có nhiệm vụ tìm phương tiện để thành lập ở Huế một trường Đại Học. Công việc nầy được tạp chí Missions Catholiques kể lại chi tiết như sau: “Đức Cha Gauthier Giám-mục Giáo-phận Vinh được Vua Tự-Đức giao trọng trách thành lập tại Thủ-đô Huế một viện đại-học để hướng dẫn người dân Việt-Nam đi vào các ngành khoa-học kỹ-thuật, Người đã về Pháp với đoàn tùy tùng gồm hai vị quan lại công-giáo để tìm nhân sự và tài chánh, vật liệu cần thiết. Người đã được chính quyền nước Pháp yểm trợ rộng rãi mọi mặt. Người từ giã nước Pháp ngày 25.11.1867 để trở về Giáo-phận của Người. Nhưng kết quả như thế nào thì chính bức thư Người viết đề ngày 31/3/1868 dưới đây sẽ cho thấy rõ hơn:
        Mấy hôm sau, ngày tôi đến kinh đô Huế, 29/2/1868, Vua Tự Đức có hỏi chương trình của chúng tôi và bản chiết tính tỉ mỉ vật liệu, máy móc cần thiết cho viện đại học. Đức Vua có vẻ ưng ý những gì được mang từ Pháp-quốc qua để giúp đỡ Ngài và muốn thấy tận mắt những gì ông bộ-trưởng hàng-hải gởi cho chúng tôi. Đức Vua cũng đề cập đến vấn đề thù lao các giảng-sư. Thù lao tuy không bao nhiêu nhưng cũng tạm vừa việc. Chúng tôi cũng biết Vua Tự-Đức đang chuẩn bị ban phép cho Đức Cha Sohier Bình (Giáo-phận Huế) xây đại-học nầy trên phần đất Người chọn nằm khoảng giữa nhà thờ chánh-tòa và tòa Giám-mục.
        Kể ra lúc đầu hứng khởi lắm. Tôi chỉ cần chờ phản ứng mạnh về phía Triều-đình để xem họ nghĩ như thế nào nữa mà thôi. Công việc đã được tiến hành một tháng, Kết quả như vậy là khả quan lắm, nếu người ta biết nghĩ đến những bận rộn của Triều-đình Huế lúc bấy giờ đang lo gởi một phái bộ qua Pháp và thói quen chậm chạp cố hữu của một quốc gia không biết coi trọng thời giờ.
        Như vậy mới biết nhà Vua đêm ngày hằng ước mong cho đại-học thành hình và sinh hoạt như dự liệu…”
        Về địa điểm xây dựng Viện Đại Học nầy, triều đình dự tính lấy sứ quán làm cơ sở của trường học, nhưng Giám Mục Gauthier và Giám Mục Sohier cho rằng sứ quán quá ẩm thấp, không bảo quản được dụng cụ máy móc và cũng không tiện cho việc học tập nên đề nghị xây dựng cơ sở mới trên một khu đất rộng chừng hai mẫu ở xã Vạn Xuân, nằm giữa nhà thờ Kim-Long và Tòa Giám mục Huế (Xem tờ trình của Giám mục Gauthier và Sohier, Phụ lục VI 9.- Trương Bá Cần, Nguyễn Trường Tộ, con người và di thảo, Nhà xuất bản TP Hồ Chí Minh, 1988, trang 50).
        Tuy nhiên dự án thành lập Viện Đại Học Huế này đã không thành. Theo các thư của Giám Mục Gauthier viết về Pháp, sở dĩ việc thực hiện dự án mở trường tại Huế đã không thành  là do sự cản trở của Nguyễn Tri Phương và Võ Trọng Bình là hai vị quan có thế lực trong Triều đình. Trong một bức thư gửi cho Hội Truyền Giáo Paris (MEP) đề ngày 31-3-1868, Giám Mục Gauthier viết: “Công việc sẽ tiến triển nhanh hơn nếu không có việc cử sứ bộ đi Pháp và những sự chậm chạp của xứ này… Trong các quan thượng thư, có hai vị cựu trào tìm cách cản trở quyết tâm của nhà vua.”  Cũng trong thư đó, Giám Mục Gauthier lại viết: “Chính phủ đã nói với một trong những Linh Mục của tôi là tôi sẽ góp ích cho xứ sở này, nếu tôi tìm được người có khả năng khai thác mỏ than và thiết lập các lò luyện thép như ở châu Âu. Điều mà tôi đã làm năm 1867, nhưng những người tôi đem từ Pháp về theo yêu cầu của nhà vua đã bị Võ Trọng Bình lúc đó đuổi về…” (Annales de la Propagation de la Foi, tập 43, trang 242-243, trích dẫn lại theo Trương Bá Cẩn, Sđd, trang 52).
        Theo sử gia Trương Bá Cẩn, có lẽ không phải chỉ có Nguyễn Tri Phương hay Võ Trọng Bình, mà có cả một luồng dư luận khá rộng rãi, trong Triều Đình cũng như ở các tỉnh, tỏ ra dè dặt, lo sợ trước ảnh hưởng của các giáo sĩ người Pháp: Một trường đào tạo nhân tài đầu tiên hoàn toàn do giáo sư người Pháp, đặt ngay bên cạnh Tòa Giám Mục, dưới sự giám sát của Giám Mục.
        Theo giáo sư Yoshiharu Tsuboi, ở Nhật Bản, Triều Tiên, hay Trung Hoa lúc bấy giờ có những khẩu hiệu tương tự nhau. Hòa hồn Dương tài (Tinh thần Nhật và kỹ thuật Tây Âu) ở Nhật, Đông đạo Tây khí (Đạo lý phương Đông và thực hành phương Tây) ở Triều Tiên, Trung thể Tây dụng (Thể chất Trung Hoa và công dụng phương Tây). Những khẩu hiệu chứng tỏ nhu cầu có tính thực tế nhất định và do đó, có sự cố gắng thích nghi với những thay đổi của môi trường và với công cuộc hiện đại hóa của đất nước. Ngoài ra, theo vị giáo sư Nhật Bản này, người Việt Nam không phát triển một luận thuyết độc đáo nào khả dĩ chống lại được luận thuyết của Âu Tây; họ không đề ra khẩu hiệu nào khả dĩ vạch ra một đường lối riêng cho dân tộc, một khẩu hiệu có thể làm bật dậy sự thức tỉnh chung vì công việc đề kháng dân tộc, và về mặt này, có thể nói nước Việt Nam của Tự Đức tỏ ra bảo thủ hơn các nước theo Nho giáo khác. Chính sự thiếu mềm dẻo về hệ tư tưởng, hay, nói cách khác, tính chính thống quá cứng nhắc của các nho sĩ đã ngăn cản triều Nguyễn thích nghi với điều kiện mới. (Yoshiharu Tsuboi, Nước Đại Nam đối diện với Pháp và Trung Hoa (L’Empire Vietnamien face à la France et à la Chine 1847-1885) Nhà xuất bản Trẻ, TP Hồ Chí Minh, bản dịch Nguyễn Đình Đầu, in lần thứ ba, 1998, trang 208-209).
        Nếu dự án xây dựng Viện Đại học Huế năm 1867 do nhiệt tâm của Giám Mục Gauthier (Ngô Gia Hậu) và một số nhân vật trong đó có những người thuộc đất Nghệ Tĩnh như Linh Mục Nguyễn Hoằng, Nguyễn Trường Tộ, Nguyễn Điều v.v… thì chín mươi năm sau, năm 1957 Viện Đại Học Huế lại được trao vào tay một người con dân đất Nghệ Tĩnh đó là Linh Mục Cao Văn Luận, và niềm ước mơ trong thế kỷ XIX lần này đã trở thành hiện thực trong hạ bán thế kỷ XX với một vị lãnh đạo quốc gia có quyết tâm và có viễn kiến hơn vua Tự Đức đó là Tổng Thống Ngô Đình Diệm.
        Cuối tháng giêng năm 1957, Tổng Thống Ngô Đình Diệm ra Huế dự lễ giỗ cụ Ngô Đình Khả nhân đó gặp Linh Mục Cao Văn Luận và đưa ra ý kiến thành lập một Đại Học tại Huế với lý do Huế từ trước đã là một trung tâm văn hóa của đất nước, có truyền thống văn hóa sâu đậm, giúp cho dân Miền Trung vốn hiếu học có môi trường tiến thân. Về phương diện chính trị, TT Diệm muốn chứng tỏ quyết tâm bảo vệ Huế để thách đố với bọn Cộng Sản. Nhân đó TT Diệm mời Linh Mục Cao Văn Luận giúp ông thực hiện dự án quan trọng này. Cha Luận rất vui mừng trước đề nghị đó và một tháng sau một phái đoàn từ Sài Gòn ra gồm ông cố vấn Ngô Đình Nhu, Bộ trưởng Giáo dục Nguyễn Dương Đôn, Viện Trưởng Đại Học Sài Gòn Nguyễn Quang Trình và một số giáo sư, chuyên viên khác. Một cuộc họp ở tòa Tỉnh Trưởng có thêm một số trí thức và thân hào nhân sĩ Huế tham dự. Hội nghị thảo luận và đi tới quyết định là vì những hoàn cảnh đặc biệt, những khó khăn trong ngành giáo dục, chưa nên làm việc vội vàng hấp tấp và nói rằng Huế chỉ nên lập một chi nhánh của Viện Đại Học Sài gòn tùy thuộc hoàn cảnh vào Viện Đại Học Sài Gòn và Bộ Quốc Gia Giáo Dục. Như vậy Đại Học Huế sẽ không thành một đơn vị độc lập mà chỉ là một số các phân khoa đặt dưới quyền Viện Đại Học Sài Gòn mà thôi. Linh Mục Cao Văn Luận được cử làm đại diện cho ông Viện Trưởng Viện Đại học Sài Gòn Nguyễn Quang Trình để tổ chức. Dĩ nhiên Linh Mục Cao Văn Luận không đồng ý nhưng đành khuất phục trước quyết định của đa số.
        Về việc sáng lập Viện Đại Học Huế, giáo sư Nguyễn Văn Hai có viết:
        “Số là sau khi mới về Việt Nam nhậm chức, ông Ngô Đình Diệm ra Huế. Lẽ tất nhiên ông ấy cần một sự tiếp đón nồng hậu của dân Huế nói chung và của học sinh Huế nói riêng. Linh Mục Cao Văn Luận lúc bấy giờ là giáo sư Triết học tại Trường Quốc học. Ngài năn nỉ tôi tổ chức diễn hành đón tiếp. Tôi bàn với một số giáo sư, trưởng lớp và trưởng ban sinh hoạt của trường. Tất cả đồng ý đặt điều kiện là Ông Diệm phải hứa sau này có quyền hành thời phải mở một Đại Học tại Huế để con em miền Trung nghèo có cơ hội cầu tiến. Lời yêu cầu cũng vừa hợp ý ông Diệm. Sau khi được đoan chắc như vậy, chúng tôi mới mặc đồng phục quần trắng có thắt cà vạt xanh lơ mang biểu ngữ đòi mở Đại Học Huế đi hàng lối chỉnh tề diễn hành chào đón. Sau đó, Tổng Thống Ngô Đình Diệm giữ lời hứa cho mở Đại Học Huế mặc dầu có sự phản đối dữ dội  của các vị khoa bảng ở Sài gòn. Đại Học Huế được thành lập, con em miềnTrung có chỗ trau dồi chuyên môn, và nhiều lớp sinh viên tốt nghiệp đã góp công xây dựng nước Việt Nam.” (Nguyễn Văn Hai, Giai phẩm kỷ niệm 100 năm Trường Quốc Học, 1997, Hồi tưởng Trường Quốc Học, trích dẫn theo Nguyễn Văn Trường, bài viết “Huế, Viện Đại Học, Cha Luận và chúng tôi” trên mạng Namkyluctinh.org).
        Giáo sư Nguyễn Văn Trường cũng cho biết “giáo sư Nguyễn Quang Trình là ông Viện Trưởng đầu tiên, có công hóa giải sự chống đối việc thành lập Viện Đại Học Huế…”
        Trước những khó khăn vì xa xôi, cái gì cũng phải phúc trình về Viện, về Bộ khiến cho công việc chậm trễ nên Linh Mục Cao Văn Luận vào thẳng Sài gòn gặp TT Diệm trình bày những khó khăn và xin TT Diệm dành cho Đại Học Huế quy chế riêng biệt và ý kiến này được chấp thuận. TT Diệm đồng ý ra nghị định thành lập Viện Đại Học Huế và cử cha Luận làm Viện Trưởng đầu tiên Viện Đại Học Huế.
        Viện Đại Học Huế thành lập do sắc lệnh ngày 1 tháng 3-1957 (SL 45/GD, do Bộ Trưởng Nguyễn Dương Đôn ký) và khai giảng vào tháng 9, 1957.
        Lúc bấy giờ Linh Mục Cao Văn Luận xúc tiến nhanh việc tìm trụ sở, lớp học, địa điểm, đồng thời mời các giáo sư ở Huế, Sài Gòn và ngoại quốc về hợp tác. Trong giai đoạn đầu ban giáo sư gồm có mấy người như Lê Văn, Lê Tuyên, Lê Khắc Phò, Nguyễn Văn Trung, Nguyễn Văn Trường. Vài tháng sau thêm Lê Thanh Minh Châu và vợ là Tăng Thị Thành Trai. Ngay niên khóa 1957, Đại học Huế mở các chứng chỉ dự bị như Năng lực Luật-khoa, Văn-Khoa, Khoa-Học. Ngoài ra nhận thấy việc đào tạo giáo sư Trung-học và giáo viên Tiểu học rất cần thiết cho tình trạng phát triển giáo dục mạnh mẽ hiện nay và tương lai, Linh Mục Cao Văn Luận chú trọng đặc biệt vào Đại-Học Sư-Phạm nhằm đào tạo các giáo sinh hệ ba năm thuộc các bộ môn Anh văn,  Pháp văn, Sử Địa, Việt Hán, Toán, Lý Hóa, Vạn Vật.
        Theo Giáo Sư Nguyễn Văn Trường “Triều đình của Cha lúc bấy giờ có: Lê Khắc Phò, “Tổng Bí Thơ” và một “Ban Bí Thơ Trung Ương” gồm toàn những hiền tài, quí ông, bà: Đỗ Ngọc Châu, Trần Đinh, Mệ Viễn Dung, Đinh Văn Kinh, Trần Thị Như Chương, Bùi Trí, Nguyễn Văn Thùy, Tôn Thất Quỳnh Thọ, Paul Vogle, Lương Hoàng Phiệt, Nguyễn Bính.”
        Trực thuộc Viện có Viện Hán Học, Trường Cao Đẳng Mỹ Thuật Huế và các Khoa: Văn Khoa, Khoa Học, Sư Phạm, Luật Khoa, Y Khoa.
        Sau đây là danh sách của quý vị Khoa Trưởng và Giám Đốc đầu tiên của Viện Đại Học Huế:
        Văn Khoa: Ông Lê Văn Diệm
        Khoa Học: Bs. Vũ Đình Chính, Ông Trần Văn Bé.
        Sư Phạm: Ông Lê Văn.
        Luật Khoa: Bà Tăng Thị Thành Trai, Ông Phan Văn Thiết.
        Y Khoa: Ông Lê Tấn Vĩnh, Ông Lê Khắc Quyến.
        Trường Cao Đẳng Mỹ Thuật: Ông Tôn Thất Đào.
        Viện Hán Học: LM Nguyễn Văn Thích, (Võ Như Nguyện làm Giám Đốc).
        Ban Giảng Huấn của những năm đầu của các khoa, trường, viện: Trần Văn Bé, Nguyễn Thị Bảo Xuyến, LM Urbain, Lê Thanh Minh Châu, Tôn Thất Đào, Lê Văn Diệm, Sư Huynh Ferdinand, Nguyễn Văn Hai, , Trần Kinh Hòa, Tôn Thất Hanh, Hồ Thị Hường, Lê Hữu Mục, Bùi Nam, Trần Quang Ngọc, LM Nguyễn Phương, Cụ Nguyễn huy Nhu, Lê Đình Phòng, Lê Khắc Quyến, Phan Xuân Sanh, Krainick, Trần Nhật Tân, Trần Văn Tấn, LM Nguyễn Văn Thích, Bùi Hòe Thực, Nguyễn Toại, Tăng Thị Thành Trai, Nguyễn Hữu Trí,  Nguyễn Văn Trung, Nguyễn Văn Trường, Lê Tuyên, Lê Văn, Lê Bá Vận, Nguyễn Văn Vĩnh, Lê Trọng Vinh, Trương Đình Ý, Lê Yên…
        Ban Thỉnh Giảng của những năm đầu: Đặng Đình Áng, Nguyễn Chánh, Trương Văn Chình, LM Trần Thái Đỉnh, Âu Ngọc Hồ, Phạm Hoàng Hộ, trương Bửu Lâm, LM Lê Văn Lý, Lê Tôn Nghiêm, Từ Ngọc Tỉnh, Nguyễn Quảng Tuân, Thái Công Tụng, Bùi Quang Tung, Phạm Việt Tuyền, LM Thanh Lãng, Lê Tài Triển. (Theo tư liệu của GS Nguyễn Văn Trường).
        Về sau có các vị sau đây: Cô Martin Piat, Pierre Đỗ Đình, LM Nguyễn Hòa Nhã, GS Nguyễn Thế Anh, LM Lefas, LM Oxarango, Đại Đức Thích Thiện Ân…
        Cuối năm 1957, Linh Mục Cao Văn Luận cùng Tổng Thư Ký là Giáo sư Lê Thanh Minh Châu đi ngoại quốc nghiên cứu cách thức tổ chức đại học đồng thời vận động sự giúp đỡ của các quốc gia Đồng Minh đó là tới Âu châu, sang Mỹ và Gia Nã Đại. Tại Mỹ có tổ chức IRC là cơ quan tài trợ đầu tiên và nhiều nhất rồi cơ quan thứ hai là  Asia Foundation kế đến là tổ chức New Land Foundation. Một số Đại học Hoa Kỳ khuyến khích và đón tiếp rất nồng hậu. Trở về Sài Gòn, Linh Mục Cao Văn Luận trình bày kết quả chuyến đi với TT Ngô Đình Diệm khiến ông rất mừng rỡ. Công việc tìm kiếm thêm đất đai để xây dựng trường sở, cư xá giáo sư, cư xá sinh viên với các họa đồ thiết kế của Kiến trúc sư Ngô Viết Thụ đều được trình lên TT Diệm phê duyệt. Mỗi lần ra Huế TT Diệm đều có đến thăm Viện Đại Học Huế và chứng kiến kết quả việc làm của Linh Mục Cao Văn Luận.
        Linh Mục Nguyễn Phương tốt nghiệp ở Đại Học San Francisco, California được mời từ Đà Nẵng ra Huế để dạy môn Lịch Sử, đã cho chúng tôi biết, khi ra thăm Viện Đại Học Huế năm 1962, TT Ngô Đình Diệm đã tới Trường Đại Học Văn Khoa Huế, thăm Phòng Nghiên Cứu Sử và dừng lại rất lâu ở khu vực trình bày các luận văn nghiên cứu sử học của các giáo sinh Đại Học Sư Phạm để đọc xem các công trình nghiên cứu, nhất là những tập văn của Giáo sư Nguyễn Hữu Châu Phan lúc bấy giờ là Giáo sinh ĐHSP.
        Tháng 10 năm 1959, sau hai năm điều hành thành công Viện Đại Học Huế, Linh Mục Cao Văn Luận lại đượcTổng Thống Ngô Đình Diệm giao nhiệm vụ thành lập Viện Hán Học trực thuộc Viện Đại Học Huế với sắc lệnh 389-GD ngày 18/10/1959. Đây là mỹ ý của TT Diệm muốn bảo vệ nền cổ học và văn hóa đạo đức của nước nhà do tổ tiên để lại. Nghị định tổ chức mang số 1505 – GD ngày 9-12-1959 do Bộ Quốc Gia Giáo Dục ban hành quy định thể chế sinh hoạt của Viện Hán Học trao cho Linh Mục Cao Văn Luận nhiệm vụ Giám Đốc và một chủ sự để điều hành công việc của Viện. Giáo sư Nguyễn Tuấn Cường thuộc Viện Đại Học Harvard, cho rằng với sự thành lập Viện Hán Học tại Huế, Miền Nam Việt Nam đã đi trước Miền Bắc trong lãnh vực bảo tồn nền cổ học trên ba mươi năm.
        Trong sách Trung Dung, Khổng Tử đã từng viết về cốt lõi của Đại học rằng : “Đại học chi đạo tại minh minh đức, tại tân dân, tại chỉ ư chí thiện.”          ,    ,       . Linh mục Séraphin Couvreur, S.J. một nhà Trung Hoa Học nổi tiếng, đã dịch ra tiếng Pháp là “La voie de la Grande Étude, (c-à-d. ce que l’homme dès l’adolescence doit apprendre et pratiquer) consiste en trois choses, qui sont de faire briller en soi-même les vertues brillantes que la nature met dans l’âme de chacun, de renouveler (c-à-d. de reformer) les autres hommes, et de se fixer pour terme la plus haute perfection. (Séraphin Couvreur, Lea quatre Livres de Confucius, De l’école Francaise en Extrême-Orient, A PARIS, au 7 du faubourg St-Honoré, 1981, page 2. Sách Nho Giáo của cụ Trần Trọng Kim trích lại câu trên, dùng chữ thân dân thay cho tân dân và dịch là: “Cái đạo của bậc đại học là ở sự làm sáng cái đức sáng, ở sự thân-yêu người, ở sự đến chí thiện mới thôi.” (Trần Trọng Kim, Nho Giáo, Bộ Giáo Dục & Trung Tâm Học Liệu xuất bản, 1971, quyển thượng, trang 177). Theo một số nhà nghiên cứu, chữ thân dân     có lúc được dùng thay cho chữ tân dân   (có lẽ vì tự dạng hơi giống nhau và ý nghĩa cũng san qua sẻ lại với nhau được). Cái ý niệm làm mới (renouveler) hay đổi mới (réformer) con người chính là cốt lõi của hai chữ Đại Học đã được Linh Mục Cao Văn Luận và hàng ngũ giáo sư cộng sự viên tích cực phát huy tại Viện Đại Học Huế, một cơ sở văn hóa trọng yếu của Việt Nam Cộng Hòa ở một đất văn vật của Miền Trung. Tinh thần đổi mới và tự trị Đại Học chính là sợi chỉ đỏ xuyên suốt của Viện Đại Học Huế trong những năm dưới quyền Viện Trưởng Cao Văn Luận. Viện Đại Học Huế bắt đầu áp dụng chế độ chuyển ngữ bằng quốc ngữ thay cho tiếng Pháp mà theo nhiều vị giáo sư đó là cách giúp cho giáo dục Đại Học làm trọn vẹn chức năng của mình.
        Một vị giáo sư có mặt với Viện Đại Học Huế từ những ngày đầu, Giáo sư Nguyễn Văn Trường đã viết như sau:
        “Sáu niên học ở Viện Đại Học Huế (1957-1963), bể dâu lắm chuyện. Nhưng đặc thù cho giai đoạn “lập quốc” này, thiết nghĩ các việc sau đây là nổi bật nhất: Trong một chừng mực nào đó, Viện Đại Học độc lập đối với các đảng phái chính trị, tôn giáo và tự trị đối với chính quyền. Tự trị và độc lập là hai từ lớn. Nếu không nói rõ nghĩa thì hoặc chúng trống nghĩa hoặc có nhiều nghĩa nên dễ ngộ nhận.
        Theo văn bản, thì Viện Đại Học tùy thuộc Bộ Giáo Dục. Cụ thể như sau đây:
        “Về học vụ, sự thành lập các khoa, trường, ngành học, văn bằng, chứng chỉ phải do Bộ Giáo Dục chấp thuận.
        Về nhân viên, việc tuyển dụng, lương bổng, thăng thưởng, sa thải phải do Bộ Giáo và Tổng Nha Công Vụ chấp thuận.
        Về ngân sách: Quyền chuẩn chi được ủy nhiệm cho Viện Trưởng.
        Như vậy, về hành chánh, Viện Đại Học trực thuộc Bộ Giáo Dục, và có thể bị chi phối bởi Bộ Giáo Dục và Tổng Nha Công Vụ.
        Tuy nhiên, trong thực tế, chúng tôi không cảm thấy một sức ép nào từ những cơ quan nêu trên. Sự duyệt y các kết quả thi cử, các văn bản thành lập phòng ban v.v… có khi là cần thiết. Tự trị không có nghĩa là không luật pháp. Nhà nước cung cấp ngân sách cho Viện, sự biện minh các chi tiêu, sự kiểm soát đương nhiên là cần thiết. Có điều là khi mình thấy thong dong trong luật pháp, mình không cảm nhận bị ràng buộc, gọi như thế là tự trị, một sự tự trị thực tế, chủ quan và tương đối.
        Viện đứng ngoài mọi đảng phái chính trị kể cả đảng chính quyền, các tổ chức tôn giáo. Gọi như thế là độc lập. Nhưng trên hết, tự trị và độc lập của nền giáo dục đại học nằm ở chỗ tự do truyền bá, phát huy, và thu nhận của giáo chức và sinh viên. Lẽ dĩ nhiên là trong một giới hạn khả chấp. Điều này là một giá trị hiễn nhiên của nền giáo dục Miền Nam, và là một điểm son của chế độ.
        Sứ mạng, nhiệm vụ, mục tiêu, đường lối của Viện Đại Học được minh định rõ trong những văn bản mà đôi bên, Chính quyền và Viện Đại Học đều nghiêm túc tôn trọng.”
        Những điều giáo sư Nguyễn Văn Trường nêu trên có lẽ xuất phát từ ý niệm đại học của Karl Jaspers, một triết gia hiện sinh nổi tiếng của Đức khi ông cho rằng ý niệm đại học gồm ba nhân tố đó là sự thống nhất luôn mới mẻ của các ngành khoa học, định chế đại học và mối quan hệ giữa đại học và nhà nước trong đó Jaspers nhận ra sự hỗ tương căng bức : đại học vừa thuộc nhà nước, vừa tự trị không mang tính nhà nước. Thành hay bại là ở chỗ xây dựng được cơ chế hợp tác bền vững, ổn định và tôn trọng lẫn nhau. (Bùi Văn Nam Sơn, Ý niệm đại học: Linh hồn của giáo dục cấp cao. Tư liệu đăng tải trên mạng, Sept. 14, 2015).
        Cuối năm 1958, Viện Đại Học Huế đã trưởng thành với các phân khoa hoạt động đều đặn, Linh Mục Cao Văn Luận nghĩ đến việc mở thêm Đại Học Y Khoa vì số bác sĩ ở Việt Nam quá ít. Cha Luận vào Sài Gòn đưa ý kiến đó ra thuyết phục TT Diệm và được TT có vẻ lưu tâm, nhưng khi TT đưa ra nội các thì các ông Bộ Trưởng đều bác bỏ. Chờ lâu không thấy quyết định của TT Diệm, cha Luận lại vào Sài Gòn và cuối cùng cũng xin được sắc lệnh thành lập Đại Học Y Khoa Huế. Có được sắc lệnh ấy, Linh Mục Cao Văn Luận đi gặp các tòa đại sứ mà người thứ nhất là ông Costler, Phó Giám Đốc Cơ quan Viện Trợ Hoa Kỳ, toà Đại Sứ Pháp rồi tới tòa Đại Sứ Đức gặp ông Von Wenland. Ông Jacob, Cố Vấn Văn Hóa tòa Đại Sứ Đức rất thiện cảm với chương trình của cha Luận đã ra Huế gặp cha và hai tháng sau bác sĩ Krainick, giáo sư thạc sĩ từng giảng dạy Đại Học Đường Y khoa Freiburg được phái đến Huế. Cha Luận vào Sài Gòn xin TT Diệm tài trợ bằng cách cho lấy tiền lời xổ số kiến thiết trong 8 kỳ rồi ngài cùng bác sĩ Lê Khắc Quyến  đi Đức, gặp Thủ Tướng tiểu bang Baden Baden là ông Keisinger. Ngài cũng gặp Tổng Giám Mục Freiburg là người có ảnh hưởng trong giới đại học. Lúc bấy giờ đại học Y khoa Freiburd đồng ý bảo trợ cho đại học Y khoa Huế. Ngài cũng ghé Thụy Sĩ nhưng không có sự giúp đỡ nào đáng kể. Cha Luận đi Ba Lê tìm Bác sĩ Lê Tấn Vĩnh là một người rất nổi tiếng đang làm việc với giáo sư Lelong. Bác sĩ Vĩnh về Huế làm Khoa Trưởng Y Khoa được vài tháng nhưng gặp sự đố kỵ của giới Y Khoa Sài Gòn nên ông từ bỏ đất Huế vĩnh viễn.
        Niên khóa 1959, lớp Dự Bị Y Khoa đầu tiên của Đại Học Y hoa Huế khai giảng với dàn giáo sư tạm đủ nhưng trường sở còn quá thiếu. Linh Mục Luận tìm đến ông Seabern, đại sứ trưởng phái bộ Gia-Nã-Đại trong Ủy Hội Kiểm Soát Đình Chiến, và được cấp 25 triệu cho Đại Học Y khoa, 6 triệu cho Đại Học Khoa Học. Về phía Hoa Kỳ mãi đến khoảng năm 1961 họ mới giúp trang bị các phòng thí nghiệm và cấp 60 triệu xây cất thêm trường Đại Học Sư Phạm và trường Trung Học Kiểu Mẫu. Trong những năm từ 1957-1962, Viện Đại Học Huế tuần tự phát triển làm cho các nước Đồng Minh tin tưởng vào tương lai Việt Nam và sẵn sàng giúp VN mà không sợ phí.
        So sánh ngành giáo dục của Miền Nam trong đó có sự đóng góp của Viện Đại Học Huế cùng với toàn bộ các địa phương khác ở Miền Nam so với Miền Bắc, Joseph Buttinger, một sử gia Hoa Kỳ đã phải viết rằng:
        Progress in the field of education, primary as well as higher, was equally remarkable. The number of students enrolled in universities rose from 2,451 in 1954-55 to 7,496 four years later. During the same period, community “pilot schools”increased from 577 to 5,123 and the number of students in primary schools from 400,865 to 1,110,556. About 2,000 young students studied abroad. The National Institute of Administration which in 1954 had at most 25 students, in 1957 trained about 300 officials in its day progam and 3,540 in evening courses.
        In conclusion, the historian made a comparison, saying, “Education was one field in which the Diem regime was a match for its Northen rival.”12
        Tạm dịch: “Sự tiến bộ trong lãnh vực giáo dục cơ bản là cao hơn thật đáng lưu ý. Con số sinh viên ghi danh vào các trường đại học đã tăng từ 2,451 trong các năm 1954-55 đã lên con số 7,496 trong bốn năm sau. Cũng trong thời kỳ đó cộng đồng những trường công đã tăng từ 577 lên 5,123 và con số học sinh trong các trường tiểu học từ 400,865 lên 1,110,556. Có khoảng 2,000 sinh viên du học ngoại quốc. Trường Quốc Gia Hành Chánh trong năm 1954 có chừng 25 sinh viên, năm 1957 đã huấn luyện được khoảng 300 viên chức theo chương trình học lớp ngày và 3,540 theo học các lớp đêm.”  Trong phần kết, sử gia này làm một cuộc đối chiếu khi nói rằng “Giáo dục là một lãnh vực mà chế độ ông Diệm đã thi đua với đối thủ miền Bắc.” (Nguyễn Phương, A parade of the American puppets, A story of South Vietnam from 1954 to 1975, bản thảo 1978, trang 61).
        Ngoài ra một cơ quan rất cần nhắc lại ở đây đó là Tạp chí Đại Học vốn là cơ quan ngôn luận và nghiên cứu do Linh Mục Cao Văn Luận thành lập cùng với nhà in Đại Học (GS Nguyễn Văn Trường cho biết là do ông Đại Sứ Ngô Đình Luyện tặng) đã để lại nhiều bài viết rất giá trị cho đến ngày nay. Tạp chí Đại Học xuất bản từ năm 1957, do giáo sư Nguyễn Văn Trung làm chủ bút, bài vở do các giáo sư thuộc viện Đại Học Huế hay Sài Gòn hoặc nhiều nơi khác trong nước viết. Năm 1961, Giáo sư Nguyễn Văn Trung chuyển vào Sài Gòn và công việc điều hành Tạp chí Đại Học được giao lại cho Giáo sư Trần Văn Toàn. Giáo sư Trần Văn Toàn, ngoài việc viết bài dẫn nhập từng kỳ báo, còn đóng góp nhiều bài vở và nhất là mời các nhóm cộng tác như nhóm của Linh Mục Nguyễn Phương, Giáo Sư Trần Kinh Hòa (Chen Ching-Ho thuộc Đại Học Hương Cảng) và liên lạc với một số người viết qua ông Nguyễn Anh (trước đây được Linh Mục Cao Văn Luận biệt phái ra lo việc hành chánh cho tờ Tạp Chí này) là người liên lạc thẳng với Linh Mục Cao Văn Luận để lo trả tiền nhuận bút cho các tác giả có bài đăng báo. Sau đó ít lâu khi Giáo Sư Bùi Xuân Bào ở Pháp về, nhóm học trò cũ của ông Bào (cũng là học trò cũ của cha Luận; vì thế trước khi cha Luận đi khỏi Huế, họ có tặng cha 4 chữ Nho đầy ý nghĩa: Sư sinh đại nghĩa) là Lê Tuyên, Lê Văn, Lê Khắc Phò v.v… bàn với nhau và với cha Luận là để Giáo sư Bùi Xuân Bào làm chủ trương biên tập thay Giáo sư Toàn, nhưng sau không thấy gì vì Giáo sư Bào ở lại Sài Gòn. Sau khi Linh Mục Cao Văn Luận đi khỏi Viện Đại Học Huế (1964) không còn tiền nhuận bút nữa và Tòa Viện Trưởng lại đưa ông Nguyễn Anh về làm ở Tòa Viện Trưởng, Tạp chí Đại Học phải đình bản. Sau đó là nhóm Lập Trường (chủ yếu là Lê Tuyên, Hoàng Văn Giàu dựa thế Phật Giáo ở Huế) nắm lấy nhà in Đại Học coi như là của riêng của họ. (Trao đổi với Giáo sư Trần Văn Toàn, tháng 10-2005, lúc đó sống ở Lambersant, Pháp).
        Về phương diện củng cố và phát triển Đại Học Huế, Linh Mục Cao Văn Luận nhận xét về TT Ngô Đình Diệm rằng: “Trong phạm vi phương tiện và khả năng của ông, tôi nhận thấy ông Diệm đã không ngần ngại một việc gì để giúp cho Đại Học Huế lớn mạnh. Ông có thể sai lầm về chính trị, nhưng những nỗ lực phát triển văn hóa điển hình là việc thành lập và mở mang Đại Học Huế, thì tôi thấy cần phải công tâm và nhận định rằng ông Diệm đã có công đáng kể. Biết bao nhiêu người quyền hành trong tay đã không làm được như ông Diệm.”(Bên Giòng Lịch Sử, trang 322).
        Sau khi ở Huế xảy ra vụ treo cờ Phật Giáo, rồi vụ nổ ở Đài Phát Thanh Huế khiến có người chết và bị thương, cuộc đấu tranh của Phật Giáo chính thức bùng nổ. Linh Mục Cao Văn Luận cho biết: “Ở cương vị một Viện Trưởng Đại Học, với truyền thống tự trị của Đại Học mà tôi đã thâm nhiễm từ Pháp, tôi không thể nào đi ngược lại các phong trào sinh viên mà tôi biết chắc trước sau cũng bùng lên.” (Bên Giòng Lịch Sử, trang 337). Trung tuần tháng 5-1963, cha Luận cùng GS Âu Ngọc Hồ đi Mỹ, có tiếp xúc rất nhiều giới chính trị như TNS Mike Mansfield thuộc đảng Dân Chủ, TNS Dirksen thuộc đảng Cộng Hòa, cả hai đều tỏ ra thất vọng về chế độ của TT Diệm. Ngài cũng có gặp Robert Kennedy là người chỉ trích rất mạnh chế độ VNCH cùng với báo chí Hoa Kỳ. Một nhân vật tình báo, ông Fishell gặp cha Luận và cho biết nếu cụ Diệm không thay đổi đường lối thì nội trong năm 1963 Mỹ phải tìm cách loại bỏ cụ khỏi sân khấu chính trị VN. Khoảng đầu tháng 6-1963, Linh Mục Luận từ Nữu Ước được lệnh triệu hồi về Sài Gòn gặp TT Diệm. TT Diệm định cách chức một số khoa trưởng, giáo sư, vì họ không kiểm soát được sinh viên. Linh Mục Luận vội ngăn lại và hứa cố gắng dàn xếp đã, sau đó được chăng hãy tính. Cha Luận về Huế rồi sau đó không lâu vào Sài Gòn gặp riêng TT Diệm cho biết nếu cụ có những thay đổi chính trị thì Mỹ có thể tiếp tục ủng hộ VN để chiến thắng Cộng sản, nếu không nội cuối năm 1963 Mỹ sẽ dùng Phật Giáo làm cái cớ để lật đổ chế độ của cụ.
        Lúc bấy giờ người Mỹ xâm phạm quá đáng vào chủ quyền dân tộc của Miền Nam Việt Nam, muốn đem quân vào nhưng việc đó sẽ làm mất chính nghĩa của chúng ta. Cabot Lodge đã hành xử y hệt một tên thái thú Trung Hoa ngày trước vì họ nghĩ nhiều đến câu châm ngôn “ai chi tiền thì người đó cai trị” (qui paye, gouverne).
        Khoảng giữa tháng 8 năm 1963, Tổng Giám Mục Ngô Đình Thục vào Sài Gòn đề nghị với TT Diệm bãi chức Viện Trưởng Đại Học Huế của Linh Mục Cao Văn Luận vì ngài đã không tích cực trong việc vận động sinh viên phật tử, hoặc ít ra im lặng để cho sinh viên phật tử tham gia các cuộc đấu tranh Phật giáo. Đức cha Thục đề nghị đưa ông Trần Hữu Thế lên thay cha Luận và chiều ngày 14-8 Bộ trưởng Quốc gia Giáo Dục Nguyễn Quang Trình ra Huế thông báo quyết định bãi chức với cha. Sáng hôm sau ngài được lệnh bàn giao chức vụ Viện Trưởng, có mặt ông Nguyễn Quang Trình, Trần Hữu Thế và một ít khoa trưởng và giáo sư tham dự. Trong diễn văn ứng khẩu ngắn, Linh Mục Cao Văn Luận xin chuyển lời cám ơn TT Ngô Đình Diệm đã cất cho ngài khỏi gánh nặng làm Viện Trưởng Viện Đại Học Huế trong giai đoạn khó khăn và đầy trách nhiệm này. Ngài cũng mừng được trở lại đời sống tu hành và nhất là mừng vì ngọn đuốc văn hóa mà ngài và các cộng sự viên đã cố gắng nhóm lên ở Huế nay được trao cho một bàn tay khác hy vọng đủ khả năng làm bừng sáng lên…
        Tin Linh Mục Cao Văn Luận bị bãi chức loan truyền tại Huế rất nhanh vào buổi trưa và hàng ngàn sinh viên kéo đến tư thất của Ngài để yêu cầu ngài trở lại chức vụ cũ nhưng ngài vào Đà Nẵng rồi sau đó vào Sài gòn, không nhận chức đại diện VNCH tại cơ quan văn hóa Liên Hiệp Quốc (UNESCO).
        Sau ngày lật đổ chế độ Ngô Đình Diệm, những xáo trộn và hỗn loạn chính trị xảy ra đúng như sự lo sợ của Linh Mục Cao Văn Luận. Đối với TT Diệm, dù sao Linh Mục Cao Văn Luận cũng có mối tình tri ngộ, tình bằng hữu, và ngài không khỏi bùi ngùi cho số phận một dân tộc nhược tiểu, mang tiếng độc lập, nhưng mối dây cai trị đều trong tay một thế lực ngoại quốc. Ngài không mong cho ông Diệm và chế độ của ông sụp đổ mà chỉ mong sao cho ông và chế độ của ông tránh được những lỗi lầm để tồn tại.
        Thời gian không lâu sau, một Ủy Ban đại diện sinh viên và Giáo Sư Viện Đại Học Huế vào Sài Gòn mời Linh Mục Cao văn Luận ra Huế giữ chức Viện Trưởng lại, ngài từ chối, nhưng sau đó khi ông Nguyễn Ngọc Thơ, rồi Dương Văn Minh mời ngài vào gặp và khẩn khoản xin ngài nhận lại chức vụ cũ, cha Luận đồng ý sau khi cân nhắc kỹ càng khi có quyết định của Dương Văn Minh.
        Linh Mục Cao Văn Luận nghĩ rằng nếu trở lại chức vụ Viện Trưởng Đại Học Huế, ngài có thể chứng minh được rằng trước cũng như bây giờ đạo công giáo không hề có chủ trương kỳ thị tôn giáo. Trong những câu chuyện ông Nguyễn Ngọc Thơ cũng tỏ lo lắng rằng nếu sinh viên Huế không có một vị Viện Trưởng có uy tín hướng dẫn thì có thể tham gia vào những phong trào kỳ thị tôn giáo gây ra không biết bao nhiêu tang thương cho đất nước và khó khăn cho chính phủ. Tướng Dương Văn Minh cũng có những lo lắng tương tự. Hơn nữa vì tinh thần trách nhiệm và một số công việc còn dở dang và đó là những yếu tố ảnh hưởng trên quyết định trở lại chức vụ Viện Trưởng của cha Luận.
        Cái chết của TT  Diệm, theo Linh Mục Cao Văn Luận, làm cho tương lai Việt Nam trở nên đen tối hơn. Đại sứ Đức, Ông Von Wenland rất phàn nàn về cái chết của hai anh em TT Diệm và ông Nhu, đã từ chức và trở về Đức. Cái chết của TT Diệm và ông Nhu đã làm cho một số người Mỹ xúc động và quay lại có cảm tình với TT Diệm hơn trước. Bộ mặt của những người thay thế TT Diệm cũng dần dần hiện rõ và người Mỹ thấy bộ mặt thật đó chẳng đẹp đẽ gì hơn.
Cha Luận cũng nêu ra những việc làm quá lố của Tòa Đại Sứ Hoa Kỳ.
        Trung tuần tháng 8-1964, nhóm Lê Khắc Quyến, Lê Tuyên, Hoàng Văn Giàu, Mai Văn Lễ, Cao Huy Thuần, Tôn Thất Hanh thành lập Phong Trào Nhân Dân Cứu Quốc ở Huế, gán cho Công Giáo là Cần Lao, tiến hành các hoạt động kỳ thị tôn giáo, dùng Viện Đại Học Huế làm cơ sở đấu tranh, tổ chức đốt hai làng Công Giáo Thanh Bồ, Đức Lợi ở Đà Nẵng, đập phá Trường Nguyễn Bá Tòng, đốt tòa báo Xây Dựng của Lm Nguyễn Quang Lãm… Là con người “uy vũ bất năng khuất” Linh Mục Cao Văn Luận đã cương quyết chống đối lại chủ trương chính trị này. Ngài hằng duy trì chủ trương Đại Học chỉ duy nhất có một thiên chức là phát huy văn hóa thuần túy. Chính trị không thể tự do vào tung hoành hoặc lũng đoạn trong lãnh vực Đại Học dưới quyền ngài điều khiển. Ngay thời đấu tranh chống chế độ Ngô-Đình ngài cũng không bao giờ chấp nhận cho các giáo sư và sinh viên chọn Đại Học làm địa điểm tập trung sách động.
        Chính Linh Mục Cao Văn Luận đã từng thẳng thắn nói với Lê Khắc Quyến: “Anh dư biết mơ ước của tôi là phát huy văn hóa dân tộc. Trước đây tôi đã nhiều lần nói với các anh rằng chính trị là nhất thời văn hóa mới trường cửu. Nếu Đại học muốn trường cửu, Đại học không nên làm những chuyện nhất thời… Tôi không muốn cho Đại Học có Đảng phái chính trị. Chẳng phải lúc này tôi mới có chủ trương lập trường nầy mà ngay từ khi Đại Học mới khai sinh, tôi cũng đã nhấn mạnh đến lập trường của tôi. Khi nào tôi còn giữ chức coi sóc Đại-học Huế, tôi còn tranh đấu đến cùng, để Đại-học chỉ là khu vực thuần túy văn hóa thôi. Không ngờ lúc này các anh đặt văn phòng của phong-trào ở Đại Học mà không cho tôi hay, lại khám xét sinh viên trước khi họ vào trường nữa. Đó là chuyện trái ngược với không khí của Viện Đại học nầy. Nếu các anh tiếp tục hoạt động, các anh gắng tìm chỗ khác đặt văn phòng, xin trả Đại Học lại cho tôi ngay.”
        Giáo sư Lê Khắc Quyến lớn giọng:
        -Cha đuổi chúng tôi hả?
        Tôi lắc đầu:
        -Không phải đuổi. Anh nói quá. Tôi chỉ yêu cầu các anh trả lại không khí trầm mặc cho Đại-học. Tôi chưa hiểu rõ lắm về phong trào của các anh, nhưng có đi phố và nhìn thấy nhiều khẩu hiệu đả đảo tướng lãnh, đồng hóa người công giáo với Cần-lao. Tôi là công giáo, nhưng không phải bất cứ người công-giáo nào cũng là đảng viên Đảng Cần-lao của chế độ cũ. Tập thể Cần-lao không xấu, chỉ có cá nhân xấu mà thôi. Cho nên các anh đừng lẫn lộn…”(Bên Giòng Lịch Sử, trang 446).
        Ngày 18-9-1964, một số giáo sư, trong đó chủ chốt là Lê Tuyên - học trò của Linh Mục Cao Văn Luận và cũng là tay chân thân tín của TT Thích Trí Quang - người mới đây vài ngày đã tặng Linh Mục Luận bức hoành phi ghi bốn chữ Hán sơn son thiếp vàng “Sư sinh đại nghĩa” (Thầy trò nghĩa lớn) thì nay cùng với sinh viên họp tại Viện Đại Học Huế yêu cầu Linh Mục Cao Văn Luận từ chức để khỏi trở ngại cho chiến dịch bài trừ Cần Lao của Hội Đồng Nhân Dân Cứu Quốc. Lúc này họ ra một tờ báo có tên Lập Trường vạch mặt chỉ tên những người mà họ cho là Cần Lao ác ôn, tay sai hoặc công an mật vụ của chế độ cũ. Dĩ nhiên lúc này Linh Mục Cao Văn Luận là cái gai trước mắt cần phải nhổ, vì ngài là một Linh Mục Công Giáo giữa khối đông Phật Giáo ở Huế.
        Ở Sài Gòn giáo sư Lý Chánh Trung là một tay thân Cộng thấy rõ, đã ủng hộ Phật Giáo trong cuộc tranh đấu chống chính phủ Ngô Đình Diệm, nhưng nay thấy cảnh học trò phản bội thầy rất đỗi chướng tai gai mắt nói trên, đã viết bài “Loạn để trị” trong tạp chí Tìm Hiểu số 2 tháng 10 năm 1964 như sau: “Một nhóm Giáo chức Đại Học họp lại, đánh điện tín là ông Viện Trưởng phải từ chức, vì sự hiện diện của ông “không cần thiết nữa”. Rồi người ta thấy Bộ Giáo Dục chấp nhận ngay sự từ chức đó, rồi ông Thủ Tướng bổ dụng ngay chính ông Tổng Trưởng Giáo Dục kiêm nhiệm chức Viện Trưởng Viện Đại Học Huế. Ôi, con rùa hành chánh sao bỗng dưng lại đi nhanh thế!” Cũng hay là lúc bấy giờ có nhiều sinh viên Đại Học Huế không đồng ý quan điểm của một số giáo sư nói trên, đã làm kiến nghị phản đối nhưng họ bị các phần tử quá khích đe dọa.  Một giáo sư đại diện cho phe Phật Giáo đấu tranh đã trả lời rằng Cha Luận giống như một “ung thư” phải cắt đi để khỏi làm tê liệt thân thể. Giáo sư Lý Chánh Trung đã vạch trần thủ đoạn của nhóm kia về cái “ung thư” đó như sau:
        “Cái ‘ung thư’ Cao Văn Luận đã mọc từ trong bào thai của Viện Đại Học Huế. Nó đã khai sinh và làm cho trưởng thành cái bào thai đó. Cái “ung thư” đó đã lê cái thân già đi khắp cùng trái đất, xin tiền, kiếm người, khẩn khoản mời mọc từng người về giúp Viện Đại Học Huế, không phân biệt chính kiến, địa phương, tôn giáo. Và kết quả sau 7 năm trời xem cũng “được” lắm chứ. Cái trường Y Khoa của Bác Sĩ Quyến, nếu không có niềm tin, cái gan lì và công cuộc vận động của Cha Luận, thì làm sao thành hình?”
        Sau khi nói về những bất mãn của nhiều giới, giáo sư Lý Chánh Trung viết tiếp: “Thật ra các anh đã “cách chức” Cha Luận vì Cha không đồng ý với các anh về mặt chính trị. Như vậy Viện Đại Học Huế đã biến thành một đảng chính trị rồi đó. Và ai không đồng ý với các anh đều là “ung thư” phải mổ phăng đi cho… "dễ làm việc,” có phải vậy không?”
        “Các anh đòi hỏi dân chủ. Đòi hỏi dân chủ bằng cách bắt đầu độc tài, độc đoán; bắt đầu khệnh khạng, huênh hoang; bắt đầu làm chủ nhân chân lý, “xếp sòng cách mạng.” (Lý Chánh Trung, Ba năm xáo trộn, Nam Sơn xb. 1966, trang 108-112).
        Sau đó Linh Mục Cao Văn Luận vĩnh biệt Huế và ở mãi tại số 32 Nguyễn Bỉnh Khiêm, Sài Gòn là trụ sở của Giáo Phận Vinh. Ngài dạy các Trường Đại Học Sư Phạm và Đại Học Văn Khoa Sài Gòn về môn Pháp văn. Năm 1971, Ngài làm Cha Chính giáo phận (Vicarius Generalis) thay thế cha Trương Cao Khẩn. Ngài là thành phần nồng cốt và chủ tịch của một trong những ban quan trọng thuộc Hội Đồng nghiên cứu thành lập Hàn Lâm Viện Quốc Gia Việt Nam.
        Trước ngày 30-4-1975, Linh Mục Cao Văn Luận di tản ra nước ngoài, sống ở Vương quốc Bỉ, làm cha xứ Saint-Martin tại Acoz (Charlerois) một thời gian. Sau đó Linh Mục sang Hoa Kỳ, hưu dưỡng tại Dòng Đồng Công và qua đời tại Petaluma, California ngày 20-7-1986 trong chuyến viếng thăm thân nhân tại vùng này. Linh Mục Cao Văn Luận thọ 78 tuổi, 47 năm làm Linh Mục.

        Đôi điều “cái quan định luận”…
        Nhận định về một nhân cách lớn như Linh Mục Cao Văn Luận, Giáo sư Nguyễn Văn Trường viết rằng: “Tôi có cảm tưởng rằng Cha là cây dù lớn. Cha có quyền, có thế. Nhưng không lấy quyền thế ấy mà bao che cho những điều xằng bậy. Ông đã dùng quyền thế ấy để tạo một không khí thích hợp với cái nhìn chung của đông đảo anh em chúng tôi về giáo dục và riêng về giáo dục đại học. Ông đã biết sử dụng vị thế hết sức đặc biệt của mình để đối thoại với các thế lực chính trị, tôn giáo, đoàn thể. Chính quyền đương thời cũng hiểu sức khỏe mong manh của một tổ chức đại học mới đâm chồi, và biết trân trọng đối với những thành quả đầu tiên.”
        Nói về việc trở lại Viện Đại Học Huế của Linh Mục Cao Văn Luận sau biến cố lật đổ chế độ của TT Diệm, Giáo sư Nguyễn Văn Trường đã viết những lời thật thấu đáo tới căn để ruột gan: “Nhiều người trách cha sao không biết cái thế, cái thời, cái tiến, cái lui, ham chi chút đỉnh chung mà trở về tại Huế sau Cách Mạng 11-63. Sao Cha không làm một Bá Di, Thúc Tề, để tiếng cho người sau? Trách thì cứ trách, chê thì cứ chê. Vì người chê, kẻ trách ai cũng có lý. Nhưng nói đi thì cũng phải nghĩ lại. Nghĩ cho cùng, ơn mưa móc nhà Ngô, Cha đã hưởng được gì. Cũng những bữa cơm đạm bạc, cũng chiếc áo choàng nhà tu. Lụa là, nem công chả phượng gì cho cam.” Cái quyền, cái thế Cha có được, Cha cũng đã chỉ đem ra gầy dựng cho Viện Đại Học Huế.
        Lại nói, khi Cha trở về sau tháng 11-63, không ai không thấy quyết định nông cạn của Cha. Nhưng cũng nên nghĩ lại mà thương Cha. Cha là cha triều mà không có họ đạo, có khác chi kẻ vô gia cư. Cả cuộc đời, Cha lo công việc giáo dục, lấy học trò làm con, lấy ngôi trường làm nhà ở. Nhà ở của Cha, cuộc đời của Cha là Viện-Đại-Học Huế. Hành động của Cha cũng nên được nhìn như là một lần trở về với gia đình, với mái nhà của Cha, để tìm ở đó một chút thân thương cuối cùng trong cuộc sống. Cha đã không tìm được điều đó, điều mong ước độc nhất trong cuộc đời Cha. Và người ta đã đuổi Cha đi, đuổi Cha ra khỏi mái ấm gia đình của Cha. Sao lại nở trách Cha, mà không hiểu cho Cha!”
        Vị giáo sư người Nam nầy đã viết tiếp: “Có một thời dân cư xứ Huế, thân hào nhân sĩ, học giả, công nhân viên chức, ở mọi giai từng xã hội, cùng với một bọn trẻ, động cơ khác nhau, từ những nguồn gốc khác nhau, có người ngoại quốc, cùng nhau sát cánh với Linh Mục Cao Văn Luận xây dựng một Viện Đại Học cho con em hiếu học. Viện Đại Học này, trong phạm vi khả thể, đã làm tròn trách vụ của mình. Bao nhiêu người trẻ hiếu học đã có cơ hội học hỏi thăng tiến…”
        Linh Mục Cao Văn Luận xuất thân từ môi trường giáo dục trí thức Công Giáo sống cuộc đời một bậc lương sư đúng vào thời điểm có thể đem kiến thức tài năng ra chấn hưng đất nước, phụng sự dân tộc trong trách nhiệm của mình, mặc dù thời gian ngắn ngủi qua lãnh vực giáo dục chỉ có bảy năm. Tuy nhiên thời gian những năm sống và du học ngoại quốc và nhất là những nỗ lực vận động cho Cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm khi trở về trong nước, với tinh thần ái quốc dạt dào, Linh Mục Cao Văn Luận cũng đã tỏ rõ hết trách nhiệm của mình trước thế nước lòng dân. Với tâm thức của một kẻ sĩ, Linh Mục Cao Văn Luận là người luôn cố gắng “tận nhân lực tri thiên mệnh” nên trong những khó khăn vẫn cố làm hết sức mình dù phải vất vả ngược xuôi và chịu tiếng thị phi. Đức Cha Ngô Đình Thục đã có lần gán cho ngài tĩnh từ không mấy đẹp là “prétentieux” (người tự phụ) nhưng thật ra đó cũng là lời khen vì tự phụ là ngoại biên của tự tin, bởi lẽ trong những quyết định về văn hóa, giáo dục kể cả chính trị, không có tự tin (lẫn tự phụ) sẽ không làm được gì. Vả lại nơi con người xứ Nghệ Tĩnh đức tính tự tin là một trong những nét độc đáo của họ vốn là khả năng tạo nên lịch sử như đã từng được chứng minh.
        Linh mục Cao Văn Luận là một mẫu người trí thức dấn thân vì trách nhiệm tự đặt ra cho mình hay vì thời cuộc sắp xếp, đúng với câu nói của Nguyễn Lộ Trạch, người Thừa Thiên một nhân sĩ yêu nước thế kỷ XIX, tác giả bản chính luận nổi tiếng “Thiên Hạ Đại Thế Luận”:
        “Có trách nhiệm với đời một ngày thì cũng có việc làm của một ngày. Người quân tử rất ghét những kẻ lấy cớ thời vận để thoái thác trách nhiệm.”
        Là một Viện Trưởng có nhiều công lao nhất của Viện Đại Học Huế nói riêng và là một nhà văn hóa nổi tiếng nói chung, Linh Mục Cao Văn Luận đã thật sự có một chỗ đứng đặc biệt trong lòng các môn sinh của ngài; chỉ tiếc rằng lý tưởng “lương sư hưng quốc” của một bậc sĩ phu yêu nước như ngài chưa thực hiện được dài lâu, tuy vậy sự nghiệp văn hóa giáo dục của ngài cũng đã để lại dấu ấn bất hủ trong lịch sử văn hóa dân tộc.
                                               
                            NGUYỄN ĐỨC CUNG
                          Philadelphia ngày 20-9-2015
       

                

Không có nhận xét nào: